Việc quản lý, khai thác, sử dụng bản kê khai TSTN
Theo quy định Thông tư số 08/2013/TT-TTCP thì bản kê khai được sử dụng phục vụ cho việc bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật đối với Người có nghĩa vụ kê khai TSTN; phục vụ cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền trong việc công khai, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, xác minh, kết luận, xử lý về hành vi tham nhũng; phục vụ yêu cầu khác liên quan đến công tác tổ chức, cán bộ.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý Người có nghĩa vụ kê khai chủ động khai thác, sử dụng Bản kê khai phục vụ công tác quản lý cán bộ và phòng, chống tham nhũng; việc khai thác, sử dụng Bản kê khai phải được người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị giao nhiệm vụ bằng văn bản. Cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có nhu cầu khai thác, sử dụng Bản kê khai phải có yêu cầu bằng văn bản ghi rõ mục đích của việc khai thác, sử dụng; người thực hiện việc khai thác, sử dụng phải có giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý Bản kê khai có thể từ chối yêu cầu khai thác, sử dụng nếu yêu cầu không phù hợp với quy định tại Thông tư số 08/2013/TT-TTCP.
Việc khai thác, sử dụng Bản kê khai được tiến hành tại cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý Bản kê khai; nếu cần thiết phải khai thác, sử dụng tại nơi khác thì phải được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý Bản kê khai. Như vậy việc quản lý, khai thác, sử dụng bản kên khai phải thực hiện đúng theo sự quy định của pháp luật, nghiêm cấm việc khai thác, sử dụng trái pháp luật Bản kê khai; lợi dụng việc minh bạch TSTN để gây mất đoàn kết nội bộ.
Việc quy định về quản lý khai thác, sử dụng bản kê khai TSTN là một nội dung quan trọng để các cơ quan chức năng khai thác các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng.
Giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm và theo dõi biến động TSTN
Đây là vấn đề quan trọng và cũng để chứng minh sự trung thực của người có nghĩa vụ kê khai trong việc tự giác kê khai TSTN của mình. Theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng thì người có nghĩa vụ kê khai tự giải trình và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, kịp thời của những thông tin về nguồn gốc tài sản tăng thêm. Nội dung giải trình phải làm rõ tính chính xác, trung thực, đầy đủ, kịp thời trong việc kê khai tài sản, thu nhập; giải trình rõ nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm và những thông tin khác mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu và những thông tin khác có liên quan mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu. Như vậy việc giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm là trách nhiệm người có nghĩa vụ kê khai TSTN và tự chịu trách nhiệm về việc giải trình của mình. Tuy nhiên để theo dõi chính xác về biến động TSTN thì người có thẩm quyền quản lý, theo dõi bản kê khai phải chú ý nội dung giải trình sự biến động TSTN trong bản kê khai của người có nghĩa vụ kê khai. Theo hướng dẫn tại Thông tư số 08/2013/TT-TTCP khi tài sản tăng thêm thì phải giải thích nguyên nhân tăng vào "cột nội dung giải trình nguồn gốc tài sản tăng" và ngược lại nếu tài sản giảm thì cũng giải thích nguyên nhân giảm ... Đây là nội dung quan trọng mà người kê khai TSTN ít chú ý và có thể vi phạm trong kê khai TSTN. Điều 11 Thông tư số 08/2013/TT-TTCP quy định căn cứ xác minh tài sản, thu nhập: "Khi có căn cứ cho rằng việc giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm không hợp lý". Như vậy các cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền phải theo dõi và khi có căn cứ việc giải trình về nguồn gốc tài sản tăng thêm của người có nghĩa vụ kê khai không hợp lý thì quyết định tiến hành việc xác minh.
Việc theo dõi biến động TSTN được dể dàng và chính xác khi các nội dung về kê khai và kiểm soát TSTN được minh bạch và sự tự giác, trung thực của người có nghĩa vụ kê khai.
Xử lý vi phạm về minh bạch và kiểm soát TSTN
Chế tài xử lý các vi phạm về minh bạch và kiểm soát TSTN hiện nay là rất cần thiết, là nội dung quan trọng để các đối tượng có nghĩa vụ kê khai và các cá nhân có liên quan khác tuân thủ các quy định của pháp luật. Các chế tài này trước hết người có nghĩa vụ kê khai và các cá nhân có liên quan phải được biết.
Các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã quy định tương đối cụ thể việc xử lý hành vi vi phạm về thời hạn trong minh bạch và kiểm soát TSTN; xử lý vi phạm về kê khai, giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm không trung thực; xử lý trách nhiệm trong xác minh tài sản, thu nhập... Người tổ chức việc kê khai, việc công khai chậm; người kê khai, giải trình chậm; người tổng hợp, báo cáo kết quả về minh bạch TSTN chậm so với thời hạn quy định mà không có lý do chính đáng; người kê khai TSTN, người giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải bị xử lý kỷ luật. Tuy nhiên trong thời gian qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kê khai và minh bạch TSTN ở các cơ quan, địa phương, đơn vị còn ít, đạt hiệu quả còn thấp.
Chỉ thị số 33-CT/TW đã nêu rõ: "Xử lý nghiêm minh những cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chậm tổ chức việc kê khai; không kê khai, kê khai không trung thực; không giải trình được nguồn gốc tài sản tăng thêm; không tổ chức việc công khai bản kê khai; không chủ động xác minh hoặc không xử lý kịp thời những vi phạm quy định về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản"...
Do vậy trong thời gian đến các cấp ủy đảng, các cấp chính quyền và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, lãnh đạo chặt chẽ việc kê khai TSTN nhằm kịp thời chấn chỉnh các hạn chế, vi phạm để việc kê khai TSTN ngày càng đi vào nề nếp đúng quy định./.
Nguyễn Đức Cam
Thanh tra thành phố Đà Nẵng