Chi tiết tin

A+ | A | A-

Tăng cường sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cấp ủy, tổ chức đảng về kê khai tài sản, thu nhập

Người đăng: Admin Thanh tra Ngày đăng: 2:19 | 05/01/2017 Lượt xem: 149

Ngày 03 tháng 01 năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản (Chỉ thị số 33-CT/TW)

 

Ngày 03 tháng 01 năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 33-CT/TW  về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản (Chỉ thị số 33-CT/TW). Chỉ thị đã nêu: "... tăng cường lãnh đạo để thống nhất nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và của cơ quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị về kê khai, kiểm soat việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng, nhà nước...lãnh đạo thực hiện nghiêm túc việc kê khai và công khai bản kê khai tài sản theo quy định của pháp luật. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc diện phải kê khai tài sản theo quy định của pháp luật phải kê khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng, đúng thời hạn..."

 

Như vậy việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản đã được Bộ Chính trị  có văn bản chi đạo cụ thể và trách nhiệm này trước hết thuộc về các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

 

Các cấp ủy đảng, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần chú trọng quán triệt và giáo dục cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phát huy tính tự giác, trung thực và ý thức trách nhiệm trong việc kê khai TSTN, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện các quy định của Đảng, Nhà nước về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản. Để tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định trên đây, theo chúng tôi các cấp ủy đảng, Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung sau:

 

1. Về đối tượng kê khai TSTN

Theo quy định tại Nghị định số 78/2013/NĐ-CP và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2013 của Thanh tra Chính phủ Hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch TSTN (Thông tư số 08/2013/TT-TTCP), quy định người có nghĩa vụ kê khai TSTN gồm rất nhiều đối tượng khác nhau, từ Đại biểu Quốc hội chuyên trách, đại biểu HĐND chuyên trách, người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử  đại biểu HĐND, CBCC từ Phó trưởng phòng của UBND cấp huyện trở lên và người được hưởng phụ cấp chức vụ tương đương trong cơ quan, đơn vị của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, tổ chức, đơn vị khác được giao biên chế và có sử dụng ngân sách, tài sản nhà nước; người giữ chức vụ tương đương Phó trưởng phòng trở lên tại các đơn vị sự nghiệp công lập; Sĩ quan trong Quân đội nhân dân; trong Công an nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, uỷ viên UBND xã, phường, thị trấn; và các chức danh khác ở xã, phường, thị trấn...

Quy định trên đây là nhiều đối tượng phải kê khai, do vậy hàng năm khi lập danh sách kê khai, các cấp ủy đảng cần phối hợp với Thủ trưởng các cơ quan hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể cho bộ phận tổ chức cán bộ của cơ quan lập danh sách chuẩn xác người có nghĩa vụ kê khai, đây là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chỉ đạo kê khai và minh bạch TSTN. Xác định đúng đối tượng phải kê khai là nội dung rất quan trọng trong việc chỉ đạo, quản lý về kê khai TSTN. Nếu bỏ sót đối tượng phải kê khai trước hết người đứng đầu phải chịu trách nhiệm và chịu sự xử lý theo quy định.

 

2. Công khai bản kê khai TSTN

Một vấn đề rất quan trọng là việc công khai bản kê khai. Nếu xác định mục đích kê khai TSTN nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng thì việc công khai bản kê khai cũng phải nhằm mục đích này. Nghĩa vụ phải công khai bản kê khai TSTN là yêu cầu bắt buộc đối với người kê khai. Như vậy, người kê khai đã cam kết về sự trung thực trong kê khai TSTN với cơ quan mình đang công tác hoặc ở nơi khác theo quy định...

Biện pháp phòng ngừa tham nhũng hữu hiệu không chỉ có việc kê khai TSTN, mà phải còn kết hợp với nhiều giải pháp đồng bộ khác. Việc công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị cũng sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc theo dõi, giám sát, kiểm soát TSTN.

Theo quy định tại Thông tư số 08/2013/TT-TTCP thì "Bản kê khai của Người có nghĩa vụ kê khai phải công khai với toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc..."... Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị quyết định phạm vi công khai, hình thức công khai (niêm yết hoặc công bố tại cuộc họp) Bản kê khai của Người có nghĩa vụ kê khai đang công tác trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý".

Chỉ thị số 33-CT/TW quy định: "Chi ủy tổ chức việc công khai bản kê khai tài sản của đảng viên thuộc diện phải kê khai trong sinh hoạt chi bộ. Cấp ủy tổ chức công khai bản kê khai tài sản của cấp ủy viên trong sinh hoạt cấp ủy. Hình thức, thời điểm, phạm vi công khai bản kê khai tài sản của cán bộ, công chức, viên chức khác thuộc diện phải kê khai thực hiện theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng".

Hàng năm, bộ phận phụ trách công tác tổ chức, cán bộ phải xây dựng, trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phê duyệt kế hoạch công khai Bản kê khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình với một trong hai hình thức: công khai bằng hình thức niêm yết và công khai bằng hình thức công bố tại cuộc họp. Bộ phận tổ chức, cán bộ tiến hành tổng hợp, báo cáo tình hình thực hiện công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình.

Việc công khai bản kê khai TSTN nhằm minh bạch TSTN của người có nghĩa vụ kê khai để cho CBCCVC trong cơ quan, đơn vị và các tổ chức đảng giám sát sự biến động về TSTN của người đó nhằm phục vụ cho công tác quản lý CBCCVC, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn hành vi tham nhũng.

Công khai bản kê khai TSTN của người có nghĩa vụ kê khai là yêu cầu bắt buộc của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên hiện nay có thể có một số cơ quan, đơn vị chưa chú trọng đến nội dung này hoặc việc công khai chưa được thực hiện nghiêm túc. Vấn đề này cũng cần phải có sự quán triệt kỹ ở các cấp, các ngành và có sự kiểm tra, giám sát để theo dõi chấn chỉnh ở những nơi chưa thực hiện đúng quy định (Kỳ II: Việc quản lý, khai thác, sử dụng bản kê khai TSTN)

 

                                                                                                                 Nguồn tin: Nguyễn Đức Cam

                                                                                                                 Thanh tra thành phố Đà Nẵng

Các tin mới hơn:

Các tin cũ hơn: