Chi tiết tin

A+ | A | A-

Bình luận, góp ý Luật Phòng, chống tham nhũng: Việc theo dõi biến động TSTN

Người đăng: Admin Thanh tra Ngày đăng: 14:06 | 25/10/2016 Lượt xem: 156

Kê khai tài sản, thu nhập (TSTN) là một khâu trong quá trình kiểm soát TSTN của cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC). Kiểm soát TSTN của người có chức vụ, quyền hạn là biện pháp quan trọng trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng (Phần II )

 

Đây là vấn đề lớn, Luật lần này quy định rất cụ thể các phương thức và trách nhiệm cơ quan, đơn vị kiểm soát TSTN theo dõi biến động TTN của người có nghĩa vụ kê khai như: thu thập, khai thác thông tin, dữ liệu có liên quan đến bản kê khai TSTN của người có nghĩa vụ kê khai và cập nhật thông tin, dữ liệu về TSTN của người có nghĩa vụ kê khai; yêu cầu người có nghĩa vụ kê khai và cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, dữ liệu nhằm giải trình, làm rõ về TSTN tăng thêm; căn cứ kết quả theo dõi biến động TSTN, cơ quan, đơn vị kiểm soát TSTN có trách nhiệm yêu cầu người kê khai TSTN giải trình về TSTN tăng thêm và quyết định việc xác minh TSTN khi có căn cứ quy định. Đây là những quy định mới cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền trực tiếp tiếp cận các thông tin về biến động TSTN, đánh giá việc kê khai TSTN và sự biến động TSTN nhằm phục vụ cho mục đích của việc kê khai TSTN. Bên cạnh đó các cơ quan này cũng phải giữ bí mật thông tin, tài liệu thu thập được trong quá trình theo dõi biến động TSTN của người có nghĩa vụ kê khai và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc theo dõi biến động TSTN và bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra. Các quy định này là hợp lý.

 

Luật đã quy định ngân hàng, cơ quan quản lý nhà đất, đăng ký tài sản, cơ quản lý thuế, hải quan, cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin, tài liệu phục vụ việc theo dõi biến động TSTN khi cơ quan, đơn vị kiểm soát TSTN yêu cầu, đề nghị. Đây là những quy định cần thiết.

 

Công chức tham nhũng thường che giấu tài sản dưới tên một người khác bằng cách gửi tài sản tham nhũng cho những người có quan hệ (như con đã thành niên, cha, mẹ, anh, chị em hoặc những người có quan hệ khác... các đối tượng này không thuộc diện phải kê khai TSTN). Do vậy cũng phải tính đến biện pháp theo dõi sự biến động tài sản của những người có liên quan. Cần tạo ra cơ chế theo dõi, giám sát hữu hiệu của các cơ quan chức năng trong việc phát hiện và đề nghị xử lý những hành vi gian dối, che giấu tài sản và tham nhũng. Đây cũng là vấn đề cần đặt ra hiện nay.

 

Việc theo dõi biến động TSTN được dể dàng và chính xác khi các nội dung về kê khai TSTN được quy định một cách cụ thể, chặt chẽ và sự tự giác, trung thực của người có nghĩa vụ kê khai.

 

5. Xác minh tài sản, thu nhập

Việc xác minh TSTN đã được quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản trước đây. Tuy nhiên việc tiến hành xác minh TSTN cũng phức tạp, khó phát hiện tài sản đã được che giấu tinh vi và coi như tài sản"hợp pháp" của người khác. Do vậy, người được giao nhiệm vụ xác minh cũng cần có nghiệp vụ cơ bản và phải quy định một quy trình xác minh phù hợp với thực tiễn để có thể đưa ra kết luận một cách chuẩn xác những trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan đang nắm giữ thông tin cần xác minh, như cơ quan thuế, ngân hàng, cơ quan quản lý nhà đất...

 

Tại Điều 56 Căn cứ xác minh tài sản, thu nhập, đề nghị quy định thêm: căn cứ vào đơn kiến nghị, phản ánh của người dân hoặc phản ánh của cơ quan báo chí mà các kiến nghị, phản ánh này là rõ ràng, cụ thể, có cơ sở thực tế để xác minh và kết luận.

 

Tại Điều 61 Nhiệm vụ, quyền hạn của người xác minh, đề nghị quy định thêm: trong trường hợp cần thiết, người xác minh kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác đối với các đối tượng xác minh cố ý gây cản trở và không phối hợp với người xác minh để phục vụ cho việc xác minh.

 

6. Xử lý vi phạm về minh bạch và kiểm soát TSTN

Chế tài xử lý các vi phạm về minh bạch và kiểm soát TSTN hiện nay là rất cần thiết, là nội dung quan trọng để các đối tượng có nghĩa vụ kê khai và các cá nhân có liên quan khác tuân thủ các quy định của pháp luật. Các chế tài này trước hết người có nghĩa vụ kê khai và các cá nhân có liên quan phải được biết.

 

Nhiều người cho rằng đề ra các biện pháp xử lý càng mạnh thì việc vi phạm trong kê khai TSTN có thể giảm đi, điều này đúng. Tuy nhiên việc ngăn chặn các vi phạm trong kê khai TSTN vẫn phải còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: quyền tiếp cận thông tin và tăng cường sự giám sát với các đối tượng kê khai...Một vài nước trên thế giới hiện nay đã dùng chế tài hình sự trong vi phạm về kê khai TSTN. Có thể đối với nước ta dùng chế tài hình sự là chưa phù hợp. Nhưng về lâu dài cũng phải nghiên cứu đến nội dung này.

 

Luật đã quy định việc xử lý hành vi vi phạm về thời hạn trong minh bạch và kiểm soát TSTN tương đối đầy đủ và hợp lý. Tuy nhiên tại Điều 68, quy định xử lý hành vi không trung thực trong minh bạch, kiểm soát TSTN vẫn còn chung chưa cụ thể. Tại Điều 68 quy định: "Những đối tượng khác có hành vi quy định tại khoản 1 Điều này thì tuỳ theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm phải áp dụng một trong các hình thức kỷ luật theo quy định của pháp luật". Như vậy có thể dẫn đến việc xem xét xử lý kỷ luật tùy theo chủ quan và sẽ không giống nhau giữa địa phương, cơ quan, đơn vị (có thể một hành vi giống nhau, nhưng nơi này xử lý nhẹ và nơi khác có thể xử lý nặng hơn...)

 

Việc xử lý TSTN kê khai không trung thực, không được giải trình một cách hợp lý, Luật đã quy định tương đối đầy đủ và có tính khả thi./.

 

Tác giả: Nguyễn Đức Cam - Phó Chánh thanh tra thành phố

Các tin mới hơn:

Các tin cũ hơn: